Xông hơi, là trục hàn lớp biểu bì, nên làm 3-7 ngày 1 lần. Còn giúp làm mềm cơ. Xông với các loại cây cỏ thảo dược thì nên hái vào buổi sáng.
Xông hơi, là trục hàn lớp biểu bì, nên làm 3-7 ngày 1 lần. Còn giúp làm mềm cơ. Xông với các loại cây cỏ thảo dược thì nên hái vào buổi sáng.
- Khi vận chuyển các chai khí đến nơi hàn cắt phải hết sức tránh không được vận chuyển chai oxy lẫn với các chai khí khác. Khi vận chuyển phải để các van về phía giá kẹp chuyên dùng bằng gỗ. Các chai khí đã hóa lỏng phải để ở vị trí thẳng đứng.
- Khi tháo lắp các chai khí phải dùng dụng cụ chuyên dùng.
- Các chai đã nạp đầy khí phải để ở phòng riêng, tại chỗ để các chai khí và chỗ làm việc phải có bình chữa cháy và các thùng cát.
- Nơi bảo quản các chai khí phải thông thoáng, tránh các tia nắng chiếu trực tiếp ào chai khí. Nhiệt độ nơi bảo quản không được quá 35 độ C.
- Các chai khí phải đặt cách xa chỗ hàn và cách nguồn nhiệt khác ít nhất 10m.
Chú ý khi sử dụng chai khí oxy:
- Khi vận chuyển không được vác bằng tay hoặc lăn chai
- Không được dùng búa, đục để tháo nắp chai
- Không được sử dụng các chai bị nứt, sứt mẻ.
Trong văn hóa ăn uống thường ngày của người Hàn Quốc và người Việt Nam có những điểm tương đồng và khác biệt, nếu chúng ta chúý tìm hiểu một chút sẽ thấy rất thú vị.
Một bữa ăn Hàn Quốc điển hình bao gồm cơm, canh, món phụ và một món chính. Món ăn Hàn Quốc sử dụng rất nhiều gia vị như hành, tỏi, ớt đỏ, gừng, mù tạt, giấm và xì dầu... Chúng được nấu bằng dầu vừng, thứ dầu không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn mang lại một hương vị rất đặc trưng cho món ăn.
Ngoài những thức ăn nổi tiếng khác thì thịt nướng là món không thể thiếu trong cuộc nhậu của người Hàn
Người Hàn Quốc có rất nhiều những quy tắc trên bàn ăn và rất coi trọng chúng. Kim chi là một món ăn tượng trưng cho tình cảm nồng hậu của người Hàn Quốc. Chúng tôi xin cùng các bạn
để các bạn có thể hiểu rõ hơn về
Giống như hầu hết những quốc gia Đông Á khác, lương thực chính ở Hàn Quốc là gạo. Một món ăn khác cũng luôn có mặt trong mỗi bữa ăn, đó là kim chi. Có tới 200 loại kim chi và người Hàn có câu: “Ăn một bữa không có kim chi giống như đi bộ mà không có chân vậy”. Món ăn này giờ đã nổi tiếng và trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Ngoài những điểm chung chung ở trên thì cũng có rất nhiều điểm khác biệt trong văn hóa ăn uống thường ngày của hai nước. Ở Hàn, người ta thường ăn cơm nấu từ gạo nếp trộn với gạo tẻ nên cơm rất dẻo, họ còn có cơm ngũ cốc “okok bap” (cơm nấu từ 5 loại ngũ cốc). Trong khi đó, người Việt thường chỉ ăn cơm nấu bằng gạo tẻ và cơm khô hơn một chút, thường vào những ngày đặc biệt thì mới nấu cơm nếp.
Ở Hàn Quốc có rất nhiều loại gia vị, họ thường sử dụng bột ớt và có thêm là nước tương “kan chang”. Ở Việt Nam, gia vị không thật nhiều nhưng có một loại nước chấm đặc biệt là nước mắm và để cho món ăn có hương vị thơm ngon hơn, khi nấu ăn có nhiều loại rau, củ, quả cho thêm vào như: hành, nghệ, cà chua, dứa, chuối… Ở Hàn, kim chi có nhiều loại đa dạng và thường ăn cùng trong bữa cơm. Còn ở Việt Nam, trong bữa ăn nhất định phải có rau tươi, có thể chế biến nhiều món như: rau luộc, rau xào, canh rau… và cũng có một số món tương tự như kim chi: dưa muối, cà muối, hành muối...
Vào mùa hè, khi ăn cả người Hàn và người Việt đều uống nước nhưng cách thức cũng khác nhau. Người Hàn vừa ăn vừa cầm cốc nước lạnh và uống. Người Việt thì thường chan canh vào bát hoặc nước rau luộc vào bát và ăn cùng với cơm, hoặc sau khi ăn sẽ chan nước canh vào bát, uống riêng.
Món canh là không thể thiếu trong bữa ăn của người Hàn
Có nhiều nét chung trong cách ăn uống ở Hàn Quốc so với cách ăn uống ở Việt Nam như đều ăn cơm, ăn theo gia đình, đều có những lễ nghĩa kính cẩn trước, trong và sau khi ăn, trong bữa ăn đều sử dụng bát, đũa và thìa, các nguyên liệu và gia vị có nhiều nét tương đồng, các loại món ăn cần thiết trong một mâm cơm giống với mâm cơm truyền thống Việt Nam... Chính vì thế, món ăn Hàn Quốc được người Việt Nam hưởng ứng và đón nhận khi các chiến dịch quảng bá ẩm thực Hàn đến với Việt Nam, có cái gì đó gần gũi, thân thiết với người Việt.Người Hàn sử dụng cả thìa và đũa nên không cầm bát lên. Người Việt thì thường hay sử dụng đũa nên dù ăn canh hay cơm là cầm bát lên ăn. Vì vậy, cái vành bát ở nước ta thường cao để người ăn không bị nóng. Cũng vì việc sử dụng đũa, thìa ở Hàn người ta thường để thức ăn lên trên bàn, trong khi người Việt mình thương để thức ăn vào mâm rồi có thể đặt trên bàn, trên chiếu, kể cả trên sàn nhà và ngồi ăn.Đến tận ngày nay, nhiều người dân Hàn Quốc vẫn rất chú trọng những quy tắc ứng xử khi dùng bữa. Có rất nhiều điều CÓ và KHÔNG cần ghi nhớ. Danh sách sau đây là một bản chỉ dẫn hữu ích để giúp chúng ta hiểu thêm về văn hóa ẩm thực của xứ sở kim chi.
Người dân Hàn Quốc vẫn rất chú trọng những quy tắc khi dùng bữa
Ăn, mặc và ở là ba yếu tố quan trọng của đời sống con người. Bạn đã biết gì về lối sống của người Hàn Quốc. Có nhiều giả thuyết cho rằng con người ở Thời kỳ đồ đá cũ bắt đầu định cư trên bán đảo Triều Tiên cách đây khoảng từ 40.000 đến 50.000 năm, tuy nhiên vẫn cần phải xác định xem họ có phải là tổ tiên của người Hàn Quốc ngày nay hay không. Một số người Thời kỳ đồ đá cũ sống trong hang động, số khác xây chỗ ở trên mặt đất bằng. Họ sống bằng hoa quả và các loại rễ cây có thể ăn được và bằng săn bắt, câu cá....
Con người ở Thời kỳ đồ đá mới xuất hiện trên bán đảo Triều Tiên khoảng năm 4000 trước công nguyên. Người ta tìm thấy dấu vết về hoạt động của họ trên khắp bán đảo vào khoảng năm 3000 trước công nguyên. Người ta tin rằng người ở Thời kỳ đồ đá mới đã hình thành nên chủng tộc người Triều Tiên. Người ở Thời kỳ đồ đá mới sống ở gần bờ biển, bờ sông trước khi tiến sâu vào đất liền. Biển là nguồn cung cấp thức ăn chính. Họ sử dụng lưới, móc câu và cần câu để bắt cá và đánh bắt các động vật biển có vỏ. Săn bắt cũng là một cách để có thức ăn. Nhiều đầu mũi tên và giáo mác nhọn đã được tìm thấy ở các khu vực người ở Thời kỳ đồ đá mới sống. Về sau, họ bắt đầu làm việc trồng trọt với cuốc đá, liềm đá và cối xay.
vẫn gần như không thay đổi từ thời kỳ Ba Vương quốc cho đến thời đại Joseon (1392- 1910). Ondol, hệ thống lò sưởi dưới sàn nhà rất độc đáo của người Hàn Quốc đã được sử dụng đầu tiên ở miền bắc. Khói và hơi nóng được dẫn qua các ống xây dưới sàn nhà. Ở miền nam ấm áp hơn, ondol được dùng kết hợp với sàn nhà bằng gỗ. Vật liệu chính dùng để dựng nên những căn nhà truyền thống này là đất sét và gỗ. Giwa, có nghĩa là nhà có lợp mái ngói màu đen được làm từ đất, thường bằng đất sét đỏ. Ngày nay, toà nhà làm việc của Tổng thống gọi là Cheong Wa Dae hay Nhà Xanh, vì ngói lợp lên mái nhà có màu xanh.
Nhà truyền thống thường được xây mà không cần sử dụng một chiếc đinh vít nào vì được ghép với nhau bằng các chốt gỗ. Nhà dành cho tầng lớp thượng lưu bao gồm một số kiến trúc tách biệt: một phòng dành cho phụ nữ và trẻ nhỏ, một phòng dành cho những người đàn ông trong gia đình và các vị khách của họ và một phòng khác cho những người giúp việc, tất cả các phòng đều có tường bao quanh khép kín. Điện thờ tổ tiên của gia đình được xây ở phía sau ngôi nhà. Thỉnh thoảng chúng ta có thể gặp một ao sen được xây ở trước ngôi nhà phía ngoài bức tường.
Hình dáng ngôi nhà cũng có thể rất khác biệt giữa miền Bắc lạnh lẽo và miền Nam ấm áp. Những ngôi nhà đơn giản ở miền Nam thường có hình chữ nhật, có một bếp, một phòng ở bên cạnh tạo cho toàn bộ khu nhà có hình chữ L; nhưng ở miền Bắc nhà có hình chữ U hoặc hình vuông với sân ở giữa.
Một trong những nét đẹp và đáng quý trong văn hóa ẩm thực của người Hàn phải kể đến là tính tiết kiệm, với người Hàn, thức ăn thừa họ sẽ tận dụng bằng cách để tủ lạnh và dùng lại ở bữa sau mà không đổ đi lãng phí giúp họ tiết kiệm được một khoản đáng kể và bảo vệ môi trường. Đây cũng được coi là một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực Hàn Quốc đáng phải học hỏi.
Hãy cùng chúng tôi trải nghiệm cảm giác trên một bàn ăn theo phong cách Hàn qua